BÁO CÁO CẬP NHẬT NGÀNH DƯỢC PHẨM: THIẾU NGUYÊN LIỆU DƯỢC PHẨM TRONG NGẮN HẠN DO DỊCH COVID-19. | Phân tích cổ phiếu - Hợp tác đầu tư

BÁO CÁO CẬP NHẬT NGÀNH DƯỢC PHẨM: THIẾU NGUYÊN LIỆU DƯỢC PHẨM TRONG NGẮN HẠN DO DỊCH COVID-19.

Lượt xem:7309 - Ngày:
  • Chia sẻ
  • TIÊU ĐIỂM NGÀNH DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
    ► Nguồn nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ (chiếm hơn 80% tổng giá trị nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu) bị thiếu hụt trong ngắn hạn do (i) dịch bệnh diễn ra mạnh ở một số tỉnh tập trung các cơ sở sản xuất nguyên liệu dược phẩm ở Trung Quốc như Hồ Bắc, Giang Tô và Sơn Đông, khiến nhiều doanh nghiệp tạm đóng cửa; và (ii) Ấn Độ hạn chế xuất khẩu khẩn cấp 13 loại hoạt chất thuộc nhóm giảm đau – hạ sốt và nhóm vitamin do không nhập được nguyên liệu ban đầu từ Trung Quốc trong Q1 2020.

    ► Tiến độ hợp tác giữa các doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam và các đối tác nước ngoài bị trì hoãn, nguyên nhân do việc di chuyển của các chuyên gia và đối tác giữa các quốc gia bị hạn chế bởi dịch bệnh COVID-19, cản trở tiến độ của các hoạt động hợp tác như thẩm định tiêu chuẩn sản xuất tốt (GMP) và xét duyệt quá trình chuyển giao công nghệ sản xuất các sản phẩm từ các đối tác ở Châu Âu, Hàn Quốc, v.v.

    ► Dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng không đáng kể tới đầu ra các doanh nghiệp dược phẩm nội địa mặc dù doanh thu các nhà thuốc và quầy thuốc tăng trưởng mạnh khoảng 164-168% trong Q1 2020 (Kantar Vietnam Worldpanel tháng 03/2020). Nguyên nhân chủ yếu do (i) nhu cầu tiêu thụ khẩu trang và nước rửa tay tăng mạnh nhưng các sản phẩm này không thuộc lĩnh vực sản xuất của các doanh nghiệp dược phẩm và (ii) nhu cầu tích trữ các sản phẩm tăng cường miễn dịch (vitamin) và các thuốc phổ thông cải thiện triệu chứng (nhóm thuốc giảm đau – hạ sốt, điều trị ho, cảm) tăng nhưng thị phần doanh thu các sản phẩm này lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài.

    ► Cơ cấu tài chính an toàn với tỷ lệ vay nợ thấp là lợi thế của đa số các doanh nghiệp dược trong bối cảnh dịch bệnh. Ngoại trừ DHT, tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu thấp ở mức <0,8 lần, trong đó nợ vay trên vốn chủ sở hữu ở mức <0,3 lần. Việc này giúp các doanh nghiệp dược tránh được áp lực trả nợ gốc và nợ vay trong thời điểm nền kinh tế trì trệ do tác động của dịch bệnh COVID-19

    ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH COVID-19 LÊN NGUỒN CUNG ỨNG API THẾ GIỚI

    Nguồn cung ứng API từ Trung Quốc và Ấn Độ bị đứt gãy trong ngắn hạn Trung Quốc là phân xưởng sản xuất API lớn nhất trên thế giới, chiếm 40-60% sản lượng API được sản xuất và cung ứng trên toàn cầu với thế mạnh là API cho các nhóm thuốc kháng sinh, giảm đau – hạ sốt và vitamin.  Lợi thế của Trung Quốc nằm ở chi phí sản xuất thấp: Trung Quốc sản xuất API với chi phí rẻ hơn 35-40% Ấn Độ, trong khi chi phí sản xuất API tại Ấn Độ đã thấp hơn 30-40% so với chi phí sản xuất API tại Châu Mỹ và Châu Âu.

    Vùng dịch bệnh phát triển mạnh nằm ở khu vực tập trung các nhà máy API của Trung Quốc.

    Từ cuối năm 2019, dịch bệnh COVID-19 bắt đầu tại Hồ Bắc, Trung Quốc và lan nhanh sang các tỉnh phía Đông của nước này. 

    Hồ Bắc và các tỉnh phía Đông Trung Quốc như Sơn Đông và Giang Tô là khu vực tập trung các nhà máy sản xuất API. Dịch bệnh khiến nhiều thành phố bị phong tỏa và làm gián đoạn hoạt động sản xuất của các nhà máy API ở phía Đông Trung Quốc. 

    Từ tháng 02/2020, một số nhà máy dược hoạt động trở lại, tuy nhiên chưa ổn định do nhân lực thiếu hụt, nguồn cung ứng khan hiếm và việc giao thương qua biên giới bị trì hoãn bởi ảnh hưởng của COVID-19.

    Nguồn: Global Times, Pharmaceutical Technology, FPTS tổng hợp

    Ấn Độ hạn chế xuất khẩu các API thuộc nhóm kháng sinh, giảm đau – hạ sốt và vitamin: 

    Ấn Độ sản xuất khoảng 8% giá trị API toàn cầu, hơn 30% trong đó được xuất khẩu. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập từ Trung Quốc, chiếm 70-85% nhu cầu API và tá dược sử dụng mỗi năm.  

    Do nhiều đợt nhập khẩu nguyên liệu dược phẩm từ Trung Quốc trong Q1 2020 bị trì hoãn, Ấn Độ đã ban hành chính sách kiểm soát và hạn chế xuất khẩu với 13 nhóm hoạt chất kháng sinh, kháng viêm, giảm đau – hạ sốt và vitamin để phục vụ nhu cầu trong nước.

    ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH COVID-19 LÊN NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM

    1. Thiếu hụt nguồn cung do ảnh hưởng bởi sự đứt gãy của chuỗi cung ứng.

    Nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 80-90% nhu cầu ở Việt Nam. Trung Quốc và Ấn Độ là 02 nguồn cung nguyên liệu dược phẩm lớn nhất cho Việt Nam, chiếm lần lượt 63,7% và 16,7% tỷ trọng nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu năm 2019. Trong 2 tháng đầu năm 2020, do nguồn cung tại Trung Quốc và Ấn Độ bị ảnh hưởng, kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu dược phẩm từ Trung Quốc và Ấn Độ lần lượt là 27,2 triệu USD (-30,0% yoy) và 9,4 triệu USD (-25,8% yoy). Tổng giá trị nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu trong 02 tháng đầu năm 2020 do đó cũng giảm 30,8% yoy, đạt 46,5 triệu USD.

    2. Doanh thu kênh OTC tăng trưởng mạnh do tâm lý tích trữ và nhu cầu bảo vệ sức khỏe

    Doanh thu kênh nhà thuốc và quầy thuốc tăng khoảng 164-168% trong tháng 02/2020 so với cùng kỳ 2019 (theo Kantar Vietnam Worldpanel), nguyên nhân do: 

    • Nhu cầu cho các sản phẩm phòng bệnh như khẩu trang và nước rửa tay tăng. Tuy nhiên, ảnh hưởng tới các doanh nghiệp dược chưa tích cực do (i) khẩu trang hay nước rửa tay đều không phải mặt hàng kinh doanh chính của các doanh nghiệp dược phẩm và (ii) thị phần phân mảnh với sự cạnh tranh của hơn 100 doanh nghiệp sản xuất vật tư y tế, sản phẩm vệ sinh cá nhân hoặc/và mỹ phẩm.
    • Nhu cầu tăng cho các sản phẩm vitamin và tăng cường miễn dịch, tuy nhiên thị phần thuộc về các sản phẩm nước ngoài. Sức cạnh tranh của các sản phẩm bảo vệ sức khỏe/thực phẩm chức năng nội địa thấp bởi số lượng doanh nghiệp Việt Nam có khả năng sản xuất giảm từ 4.190 doanh nghiệp xuống 300 doanh nghiệp sau khi Nghị định 15/2018/NĐ-CP siết chặt tiêu chuẩn sản xuất HS-GMP cho sản phẩm bảo vệ sức khỏe/thực phẩm chức năng từ tháng 07/2019. 

    • Nhu cầu tích trữ các dòng thuốc phổ thông như giảm đau – hạ sốt, thuốc ho, dung dịch nhỏ mắt – mũi tăng. Tuy nhiên, thị phần cũng thuộc về các sản phẩm nước ngoài. Các doanh nghiệp có thị phần >1% trong nhóm thuốc ho, cảm, giảm đau – hạ sốt ở Việt Nam chiếm 74,1% thị phần nhóm thuốc cùng tác dụng ở kênh OTC, trong đó các sản phẩm nước ngoài chiếm 81,6% (Panadol – GlaxoSmithKline, Strepsils – Reckitt Benckiser, Decolgen – United Pharma, Toplexil – Sanofi, v.v.) và các sản phẩm nội địa chỉ chiếm 18,4% (Hapacol Cold & Flu – DHG, Ameflu – OPV, Coldi-B và Bổ Phế Chỉ Khái Lộ – Nam Hà).

    3. Dịch bệnh COVID-19 chưa tác động mạnh tới kênh ETC ở Việt Nam

    Nhu cầu cho các sản phẩm đấu thầu chưa tăng do chưa hoạt chất nào được cấp phép và khuyến cáo sử dụng trên bệnh nhân nhiễm COVID-19 (trừ các loại hoạt chất được sử dụng trong phạm vi thử nghiệm lâm sàng) bởi chưa có đủ chứng minh về hiệu quả và an toàn của bất kỳ loại thuốc/vắc-xin nào cho vi-rút SARS-CoV-2. Theo Viện Nghiên cứu Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ, quá trình hoàn thiện nghiên cứu và cấp phép vắc-xin cho COVID-19 cần ít nhất 12-18 tháng . Phác đồ điều trị hiện tại được công bố bởi Bộ Y tế tập trung vào việc điều trị suy hô hấp theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về các phương pháp cung cấp oxy cho nhu cầu chuyển hóa của tế bào (như liệu pháp oxy, đặt ống nội khí quản và thở máy xâm nhập) (theo VITIC – Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công thương). Vì vậy, triển vọng kênh ETC tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi Thông tư 15/2019/TT-BYT (quy định lại quy chế đấu thầu) với lợi thế thuộc về các doanh nghiệp nội địa đầu tư cho tiêu chuẩn sản xuất cao cấp (như EU-GMP) nhằm hưởng lợi từ các ưu tiên trong chính sách đấu thầu cho sản phẩm nội địa có chất lượng tương đương và giá thấp hơn so với sản phẩm nước ngoài.

    TRIỂN VỌNG NGẮN HẠN CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP DƯỢC VIỆT NAM

    Chúng tôi cho rằng dịch bệnh COVID-19 sẽ chỉ tác động tiêu cực ngắn hạn lên nguồn cung nguyên liệu của các doanh nghiệp dược Việt Nam. Từ cuối tháng 02/2020, một số cơ sở sản xuất nguyên liệu dược phẩm ở Trung Quốc đã hoạt động trở lại. Việc nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc tại Ấn Độ được kỳ vọng sẽ bắt đầu lại trong Q2 2020, giúp Ấn Độ dỡ bỏ quy định hạn chế xuất khẩu các dòng hoạt chất thuộc nhóm giảm đau – hạ sốt và vitamin. 

    Các doanh nghiệp không đủ nguồn nguyên liệu dự trữ cho Q1 2020 bị ảnh hưởng nhiều nhất, trong đó có DMC, DHG và SPM (giả định sản xuất với công suất tương đương năm 2019). Dịch bệnh kéo dài sang Q2 2020 có khả năng khiến các doanh nghiệp này phải tìm các nguồn cung khác ngoài Trung Quốc và Ấn Độ, có giá thành cao hơn và làm giảm biên lợi nhuận gộp của doanh nghiệp.  Các doanh nghiệp phụ thuộc ít hơn vào nguồn nguyên liệu từ Trung Quốc sẽ chịu mức độ ảnh hưởng thấp hơn, gồm các doanh nghiệp sản xuất Tân dược với nguồn nguyên liệu chất lượng cao từ Châu Âu (vd: IMP) và các doanh nghiệp sản xuất Đông dược có khả năng tự trồng trọt, thu hái, chiết xuất và cung cấp dược liệu (vd: TRA, OPC).


    Cơ cấu tài chính an toàn là lợi thế của đa số các doanh nghiệp dược trong bối cảnh dịch bệnh. Ngoại trừ DHT, tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu các doanh nghiệp dược được duy trì ở mức <0,8 lần, trong đó tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu được duy trì ở mức <0,3 lần. Nhờ vậy, các doanh nghiệp dược không phải chịu áp lực trả nợ cao trong hoàn cảnh nền kinh tế bị đình trệ bởi dịch bệnh. Với DHT, mảng thương mại (phân phối sản phẩm cho doanh nghiệp khác) tạo ra nguồn doanh thu chính, chiếm 65,5% cơ cấu doanh thu. Các khoản nợ ngắn hạn chiếm 98,8% nợ phải trả, trong đó các khoản nợ vay chiếm 38,5% và các khoản nợ nhà cung cấp và khách hàng chiếm 55,7%. Nếu không được dãn thời gian trả nợ, DHT phải đối mặt với áp lực trả nợ cao trong bối cảnh dịch bệnh bởi cơ cấu tài chính thiếu an toàn nhất so với các doanh nghiệp khác trong ngành.

    4. Khuyến nghị

    Giá cổ phiếu IMP, TRA, và DHG giảm lần lượt 13,9%, 13,8% và 10,2% tính từ thời điểm 01 ngày trước khi ca nhiễm COVID-19 đầu tiên được thông báo tại Việt Nam vào 23/01/2020. 

    Với xu hướng giảm dần của số ca mắc bệnh mới và số ca tử vong mới do COVID-19 cùng việc nhiều nhà máy API tại Trung Quốc dần hoạt động trở lại từ cuối tháng 02/2020, FPTS kỳ vọng dịch bệnh sẽ chỉ ảnh hưởng ngắn hạn tới các doanh nghiệp dược Việt Nam. FPTS đánh giá:

    (i) KHẢ QUAN đối với cổ phiếu IMP do IMP ít phụ thuộc vào nguồn cung nguyên liệu từ Trung Quốc và Ấn Độ, có hướng đi dự phòng cho nhà máy IMP4 khi dịch bệnh làm chậm kế hoạch đấu thầu ở nhóm 2 trên kênh ETC, và doanh thu từ kênh ETC tiếp tục tăng trưởng nhờ lợi thế tiêu chuẩn sản xuất đạt EU-GMP;

    ii) THEO DÕI đối với cổ phiếu TRA do khả năng hoàn thành kế hoạch 2020 sẽ được quyết định bởi tình hình dịch bệnh trong tháng 04/2020, đặc biệt cần theo dõi khả năng hồi phục doanh thu từ các sản phẩm Đông dược chủ lực như Hoạt huyết dưỡng não và Boganic và khả năng thay đổi cơ cấu danh mục các sản phẩm chủ lực;

    (iii) KÉM KHẢ QUAN đối với các doanh nghiệp không dự trữ đủ nguyên liệu sản xuất trong Q1 2020 như DMC, DHG, SPM, và với doanh nghiệp phải chịu áp lực trả nợ cao như DHT. Đối với các doanh nghiệp dược khác, chúng tôi không đánh giá do chưa có đủ dữ liệu.

    Nguồn FPTS.

    ==================================================

    LÊ HÙNG

    TƯ VẤN – ỦY THÁC – HỢP TÁC ĐẦU TƯ CHUYÊN NGHIỆP.

    Liên hệ: 0961 498 596.

    Facebook: https://www.facebook.com/cophieu86/

    Tham gia nhóm phân tích cổ phiếu chuyên sâu tại đây.

    ==================================================

    Ý kiến Bình luận
    Top
    Gọi ngay
    Messenger
    Zalo chát
    Mở tài khoản
    Nhóm tư vấn